Nhằm nâng cao năng lực
cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở để giải quyết kịp thời, hiệu quả các mâu
thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở; góp phần
tạo chuyển biến căn bản, toàn diện trong công tác hòa giải ở cơ sở, đáp ứng yêu
cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn mới; giảm số vụ việc phải đưa ra Tòa án và các
cơ quan nhà nước giải quyết; tiết kiệm thời gian, chi phí của xã hội và của Nhà
nước; ngày 18/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 428/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019 -
2022” (sau đây gọi là Đề án).
Theo đó, Đề án đề ra
các mục tiêu cụ thể như sau:
Giai đoạn 1 (từ
năm 2019 đến hết năm 2020)
- Hoàn thành Bộ tài
liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên, các tài liệu bồi
dưỡng cho đội ngũ tập huấn viên và các tài liệu tham khảo, hỗ trợ khắc phục vụ
việc nâng cao năng lực cho hòa giải viên ở cơ sở và đội ngũ tập huấn viên.
- Toàn bộ các tài liệu
tập huấn, bồi dưỡng cho tập huấn viên, hòa giải viên ở cơ sở, các ấn phẩm về
hòa giải ở cơ sở được đăng tải trên mạng internet nhằm tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin trong việc nâng cao năng lực cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở.
- Ít nhất 95% tổ hòa
giải ở cơ sở được củng cố, kiện toàn đủ số lượng, thành phần cơ cấu hòa giải
viên theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở.
- Từ 60% - 75% hòa giải
viên ở cơ sở được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở theo
Chương trình khung và Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở do Bộ Tư
pháp ban hành. Đối với các xã, phường, thị trấn được chọn làm điểm chỉ đạo của
Trung ương, tỷ lệ này là 100%.
- Kết thúc năm 2020,
100% đội ngũ tập huấn viên cấp tỉnh, cấp huyện được tập huấn, bồi dưỡng, cung
cấp tài liệu để hướng dẫn, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho hòa giải
viên ở cơ sở.
Giai đoạn 2 (từ
năm 2021 đến hết năm 2022)
- 100% hòa giải viên ở
cơ sở mới được bầu, bổ sung, kiện toàn hàng năm được tập huấn, bồi dưỡng kỹ
năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở theo Chương trình khung và Bộ tài liệu bồi
dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở do Bộ Tư pháp ban hành.
- Ít nhất 90% hòa giải
viên ở cơ sở được tiếp cận và sử dụng Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải
ở cơ sở bằng các hình thức phù hợp để tự nâng cao năng lực, nghiệp vụ hòa giải.
- Từ 80% - 90% hòa giải
viên ở cơ sở được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở theo
Chương trình khung và Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở do Bộ Tư
pháp ban hành.
- Hoàn thành việc thực
hiện các hoạt động chỉ đạo điểm, tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng trên
phạm vi cả nước.
Để tổ chức thực hiện Đề
án, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phân công cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành
có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như
sau:
- Bộ Tư pháp là cơ quan
chủ trì Đề án, có trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên
quan tổ chức thực hiện Đề án; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực
hiện Đề án theo từng năm; chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, khen
thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện Đề án; tổng
kết việc thực hiện Đề án và tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả
thực hiện Đề án.
- Bộ Thông tin và
Truyền thông có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tin truyền thông triển
khai tuyên truyền sâu, rộng về Đề án, các quy định pháp luật về hòa giải ở cơ
sở và tình hình, kết quả hòa giải ở cơ sở.
- Thông tấn xã Việt
Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam có trách nhiệm tổ chức
tuyên truyền, phổ biến trên báo, đài các quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở
và tình hình triển khai thi hành pháp luật về hòa giải ở cơ sở, góp phần nâng
cao nhận thức của cộng đồng về vị trí, vai trò và ý nghĩa của công tác hòa giải
ở cơ sở trong đời sống xã hội, khuyến khích sử dụng hòa giải để giải quyết các
tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật trong cộng đồng.
- Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức
năng của địa phương tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Đề án; bố trí
ngân sách hàng năm để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của Đề án; báo cáo kết
quả thực hiện Đề án về Bộ Tư pháp./.
Đình Khôi