Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
(TG) - Thực tiễn
cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo
của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch cho rằng
“Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo
đất nước”.
Chống phá Đảng Cộng
sản Việt Nam là mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực thù địch. Chúng
dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, tiến hành tác động, phá hoại nội bộ Đảng, làm giảm
uy tín, nhằm đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, dù có sử dụng “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng
không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của toàn dân ta đối với
Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã
được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch
sử.
THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
Mục đích và thủ
đoạn của các thế lực thù địch là gì khi chúng tung ra luận điệu “Đảng Cộng sản
Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”?
Về chính trị,
chúng cho rằng “Ở Việt Nam, công nghiệp chưa phát triển, số lượng, chất lượng
công nhân giai cấp công nhân bị hạn chế. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi
là Đảng của giai cấp công nhân được, nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm
tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến”. Vì thế, “giai
cấp công nhân và Đảng Cộng sản không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội
đích thực ở Việt Nam” (!). “Đảng không nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị,
không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối”. Chúng xuyên tạc Đảng ta đã sai lầm
về chính trị khi “vội vàng xóa bỏ” đảng Dân chủ và đảng Xã hội, “tạo điều kiện
cho Đảng Cộng sản độc đoán, chuyên quyền, bóp nghẹt tự do, dân chủ”. Chúng kêu
gào: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ
dân chủ. Đảng cho mình cái quyền đứng trên dân tộc, cái đó không ai chịu chấp
nhận”; đòi “xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng”.
Về tư tưởng,
chúng cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tư tưởng là sai lầm”, vì rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ
phương Tây, nên không còn phù hợp với Việt Nam”; rằng “Học thuyết Mác là sản phẩm
của thế kỷ XIX, do vậy, đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu,
thì cũng chẳng thể là khoa học” (!); “chủ nghĩa Mác đã đóng góp khá nhiều cho lịch
sử, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử rồi, nó không còn phù hợp với thời đại ngày
nay”; v.v.
Đối với tư tưởng
Hồ Chí Minh, chúng cho rằng, Hồ Chí Minh là nhà “dân tộc chủ nghĩa chứ không phải
là nhà mác-xít”; “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì không phù
hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đảng Cộng sản
Việt Nam đề cao tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, là để “an dân” chứ
thực chất không theo Hồ Chí Minh (!?).
Về phương diện tổ
chức, chúng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ. Chúng cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi
thời, nó chỉ thích hợp với hoạt động của Đảng khi chưa giành được chính quyền,
còn hoạt động bí mật hoặc lãnh đạo trong chiến tranh; thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ là nguyên nhân gây ra độc đoán, chuyên quyền trong Đảng và trong
xã hội, không có nhân đạo.
Chúng còn cho rằng,
trong Đảng có nhiều phe phái: phe cải cách và phe bảo thủ; trong Đảng còn có
các nhóm lợi ích, v.v.
Về đạo đức,
chúng bịa đặt, bôi nhọ, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước, đánh vào sinh hoạt, đạo
đức, lối sống các đồng chí lãnh đạo; tung ra nhiều chuyện giật gân trong sinh
hoạt của lãnh đạo. Chúng cho rằng, Đảng và đảng viên ngày càng suy thoái, biến
chất; tham nhũng, tham ô, lãng phí là căn bệnh trầm kha không thể chữa trị được.
Từ đó chúng suy diễn thành “Đảng tham nhũng”, “Nhà nước tham nhũng”...
Thực chất, những
“lập luận” trên là thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM LUÔN ĐỦ KHẢ NĂNG ĐỂ LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC
Giả định rằng, nếu
Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất
nước thì lực lượng nào sẽ có đủ khả năng để thay thế vai trò đó? Các thế lực
thù địch thừa hiểu về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt
Nam là như thế nào, và ở Việt Nam hiện nay không một tổ chức nào có thể thay thế
và làm tốt vai trò lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, việc nói là
cứ nói, “đòi” là cứ đòi, dù biết là “nói lấy được”, mà đòi thì không được! Vì
thế, trong các luận điệu chúng tung ra, rất ít thấy xuất hiện một lực lượng cụ
thể, một gương mặt “sáng giá” khả dĩ có thể thay thế vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Đâu đó họ có nói
đến “lực lượng chính trị mới”. Nhưng cái gọi là “lực lượng chính trị mới” mà
các thế lực thù địch tung hô có thể thay thế Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất
nước và xã hội, thực chất chỉ là lực lượng được các nước tư bản và các thế lực
phản động quốc tế nuôi dưỡng, ủng hộ, cung cấp tài chính, hậu thuẫn về chính trị,
quân sự, ngoại giao. Đó là một tổ chức ô hợp gồm nhiều đại diện của nhiều lực
lượng có thù hận với cách mạng Việt Nam, có tội ác với nhân dân, những kẻ muốn
lợi dụng dân tộc ta làm lá bài chính trị để phục vụ cho lợi ích ích kỷ của
chúng.
Với lực lượng
chính trị như vậy thì chắc chắn con đường mà họ lựa chọn cho đất nước ta sẽ là
con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN). Khi nắm được quyền lãnh đạo, họ sẽ từ bỏ mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), xóa bỏ thành tựu mà nhân dân
ta đã hy sinh bao xương máu mới giành được, sớm đưa đất nước đi vào quỹ đạo của
chủ nghĩa tư bản (CNTB).
Với một mục tiêu
chính trị và một nhân thân như vậy, chúng biết rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam,
dân tộc và nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ trao cho chúng quyền lãnh đạo đất
nước. Cho nên, các chiêu bài được tung ra cũng chỉ nhằm gây chú ý, tạo dư luận,
gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân ta, trong xã hội ta, đồng thời để tranh thủ sự
ủng hộ của các nước tư bản và các thế lực phản động quốc tế hòng gây sức ép, đặt
điều kiện với chúng ta… để từng bước vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Về thực chất,
cái gọi là “lực lượng chính trị mới” không phải là lực lượng vì dân vì nước, mà
chủ yếu là vì quyền lợi giai cấp, vì mục tiêu chính trị phản động. Do đó, một khi lực lượng này lãnh đạo đất nước
thì hệ quả tất yếu sẽ là: lái đất nước đi theo con đường TBCN. Theo đó, thì cái
lợi trước hết không phải cho nhân dân lao động, cho dân tộc ta mà cho giai cấp
bóc lột, cho các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Còn nhân dân ta phải đổ bao
xương máu mới giành được độc lập, mới thoát khỏi kiếp nô lệ, là người làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh của mình, thì sẽ phải quay lại địa vị cũ, đất nước lại
rơi vào vòng lệ thuộc của các nước tư bản, đế quốc.
Thực tế lịch sử
đã chứng minh, sau khi lãnh đạo nhân dân giành được những thành tựu vĩ đại
trong Cách mạng Tháng Tám, trong các cuộc kháng chiến giành lại độc lập, thống
nhất cho non sông đất nước, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới
- thời kỳ cả nước thống nhất cùng đi lên CNXH. Đất nước chuyển sang giai đoạn mới,
vừa có hòa bình vừa có chiến tranh; vừa phải đối phó với kiểu chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế, vừa chống lại sự
bao vây, cấm vận và cô lập tứ phía. Khó khăn chồng chất khó khăn. Kinh nghiệm
lãnh đạo đất nước xây dựng CNXH được tích lũy trong những năm lãnh đạo miền Bắc
xây dựng CNXH trong điều kiện đất nước có chiến tranh trước đây tuy rất quý
báu, nhưng chừng đó là chưa đủ cho việc lãnh đạo, tổ chức xây dựng và quản lý
phát triển đất nước trong điều kiện mới với quy mô và tầm vóc mới. Mọi việc dường
như phải làm lại từ đầu, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, vừa mới giành được độc lập và vừa bước ra khỏi các cuộc
chiến tranh tàn khốc kéo dài 30 năm.
Các chiến sỹ
Vùng 2 Hải quân với công tác trang trí, tuyên truyền, cổ động Đại hội XIII bằng
panô, khẩu hiệu, bảng ảnh trong đơn vị. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)
Các chiến sỹ
Vùng 2 Hải quân với công tác trang trí, tuyên truyền, cổ động Đại hội XIII bằng
panô, khẩu hiệu, bảng ảnh trong đơn vị. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)
Chưa hết, CNXH
hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ đã giáng một đòn mạnh
vào hệ thống XHCN làm nó tan rã. Đất nước rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội trầm trọng chưa từng có và đang đứng trước nguy cơ của sự sụp đổ.
Trong hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo ấy, bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của
Đảng được phát huy và thể hiện trong điều kiện thực tiễn mới. “Đổi mới hay là
chết” đó không chỉ là khẩu hiệu mà còn là mệnh lệnh của những con tim và khối
óc có đủ sự nhiệt huyết và sự tỉnh táo để đưa đất nước thoát khỏi sự hiểm nguy.
Đảng Cộng sản
luôn là người lãnh đạo tiên phong, “đứng mũi chịu sào” chèo lái con thuyền dân
tộc vượt qua mọi thác ghềnh hiểm nguy.
Trớ trêu thay,
trong những lúc đất nước khó khăn và lâm nguy như vậy, đã không có một lực lượng
nào, một tổ chức nào đồng lòng cùng chung tay gánh vác trách nhiệm trước non
sông, đất nước, dân tộc và nhân dân. Trái lại, chỉ thấy nhưng tiếng kêu la, oán
thán, những điều chỉ trích, gây chia rẽ phân tâm, làm ngã lòng người từ phía
các thế lực thù địch và cơ hội... Thực tiễn lịch sử lại cho thấy một lần nữa, Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xứng đáng và tin cậy của dân tộc và
nhân dân Việt Nam; lịch sử và nhân dân Việt Nam lại một lần nữa tin tưởng trao
cho Đảng sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, dẫn dắt giống nòi tiến bước cùng thời đại.
Đó là sự thật hiển nhiên không phải bàn cãi.
LUẬN CỨ PHÊ PHÁN
Cơ sở lý luận
Thứ nhất, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là cần thiết, tất yếu, khách quan.
Vấn đề Đảng Cộng
sản cầm quyền là một trong những nội dung quan trọng được các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất,
tiên tiến nhất, giai cấp có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn CNTB. Nhưng muốn thực
hiện được sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân phải có “đội tiên
phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong” để lãnh đạo. Đội tiên
phong chính là Đảng Cộng sản - bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh, chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là
một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực lượng
lãnh đạo giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Ph.Ăngghen cho rằng,
Đảng Cộng sản ra đời là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng XHCN
giành thắng lợi và thực hiện được mục tiêu cuối cùng của nó là thủ tiêu giai cấp.
Kế thừa tư tưởng
trên của Mác - Ăngghen, Lênin khẳng định: “Về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ
vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”(1). Bởi Đảng Cộng
sản là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức, và là tổ chức chặt chẽ nhất của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, chỉ có Đảng Cộng sản mới có đủ phẩm chất
chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo xã hội mới. Lênin cũng chỉ
rõ: “Đảng Cộng sản…. cầm quyền tức là Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà nước mà là
lãnh đạo cả xã hội”(2). Và trong điều kiện cầm quyền đó, Đảng phải là “trí tuệ,
danh dự và lương tâm của thời đại”(3).
Giải đáp vấn đề
“Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Hồ Chí Minh chỉ rõ “trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”(4). Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại,
chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt
Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. “Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”(5).
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước
và xã hội là chính danh, hợp hiến và hợp pháp.
Trên thế giới,
việc quy định về đảng chính trị trong Hiến pháp mang tính phổ biến. Chẳng hạn:
Hiến pháp của Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc có 1 điều; Hiến pháp
của Thổ Nhĩ Kỳ, Ucraina, Ba Lan có 2 điều; Hiến pháp Udơbêkixtan có 3 điều,…
quy định về đảng chính trị(6).
Các bản Hiến
pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều có 1 điều
quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(7),
là phù hợp với xu hướng chung của thế giới hiện nay, không phải là cá biệt.
Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt
Nam”(8). Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền… Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy”.
Như vậy, vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng
bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy định) của các tổ
chức có liên quan, không phải do Cương lĩnh, Điều lệ Đảng “đơn phương” quy định.
Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính danh đầy đủ được quy định tại
Hiến pháp và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã
hội nghề nghiệp về mối quan hệ của Đảng với các tổ chức khác ở Việt Nam.
Thứ ba, Đảng đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(9). Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Trên thực tế, Đảng không có lợi
ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mục đích của Đảng
là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là
chủ nghĩa cộng sản.
Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã được khẳng định trong thực tế tiến hành cách mạng và được nhân dân thừa
nhận.
Thực tiễn Việt
Nam đã từng có thời kỳ đa đảng. Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn
tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh
Hội. Hai đảng này không đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc và nhân dân, mà
bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận.
Có thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam
còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 - 1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946 -
1988), nhưng các đảng ấy cũng không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo cách mạng. Các đảng ấy, đều tuân thủ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam được nhân dân giao phó, ủy thác. Sau đó hai đảng này tuyên bố tự
giải thể và chỉ còn lại Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên, là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của
nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng không
tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào.
Trong hoàn cảnh
Việt Nam hiện nay, Đảng ta là đảng cầm quyền chính là thông qua việc nắm quyền,
Đảng thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo
nhân dân, để đạt được mục tiêu cách mạng mà Đảng và dân tộc đều đồng thuận.
Thứ hai, vai trò lãnh đạo lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch
sử.
Từ khi ra đời
cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu
tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành
được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập
tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi trong các cuộc
kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ
quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên CNXH.
Đặc biệt, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện
so với những năm trước đổi mới; quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Tuy nhiên, trong
lãnh đạo, Đảng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm nghiêm trọng.
Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để
tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Nhưng, một số kẻ thù địch, cơ hội
chính trị lại không thấy hoặc cố tình lờ đi điều ấy, hơn thế, họ còn thổi phồng
những khuyết điểm, sai lầm của Đảng và quy kết Đảng không đủ năng lực lãnh đạo
trong điều kiện mới của đất nước. Rõ ràng đây là một sự xuyên tạc, vu cáo Đảng
ta, nhằm kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân,
hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và
nguy hiểm.
Thứ ba, nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy
quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa
nguyên, đa đảng.
Quan hệ Đảng -
dân là mối quan hệ bản chất và máu thịt của Đảng ta. Ngay từ khi ra đời Đảng
luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, được nhân dân thương yêu,
đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 90 năm đi theo Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt
Nam, không có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi
ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng ủy thác trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Thực tế cách mạng
Việt Nam cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu
của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Vì thế, các tầng lớp nhân dân mong muốn
Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, không chia sẻ quyền lực với các lực lượng
khác khác trong vai trò cầm quyền của mình. Bởi đó là nguyên tắc đã được được
hiến định và là một kết quả tất yếu của lịch sử cách mạng Việt Nam, không thể
thay đổi
Quan hệ Đảng -
dân là mối quan hệ bản chất và máu thịt của Đảng ta.
Thứ tư, ở Việt Nam, không có một lực lượng
chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh
nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội.
Tuyệt đại đa số
nhân dân mong muốn Đảng tự chỉnh đốn, khắc phục các khuyết điểm, yếu kém để
hoàn thành sứ mệnh của mình là lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để xứng đáng với sự
tin cậy của nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong, vai
trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Đặc
biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” đã đề ra bốn nhóm giải pháp giải quyết những vấn đề cấp bách trong
công tác xây dựng Đảng, trong đó nhóm giải pháp thư tư nêu rõ việc phát huy vai
trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng
hiện nay.
Tóm lại, quan điểm
cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng
để lãnh đạo đất nước” là quan điểm sai lầm, phản khoa học, phi thực tế. Quan điểm
này dựa trên những lập luận mang tính chủ quan, võ đoán, thiếu căn cứ khoa học,
bất chấp đạo lý và lẽ phải thông thường, phiến diện và phi lôgic. Thực tiễn
cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo
của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch đó và
chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo
đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân./.
PGS.
TS. PHAN TRỌNG HÀO
Hội
đồng Lý luận Trung ương
Theo
tuyengiao.vn
________________________
(1) (2) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ,
M, 1980, t.33, tr.406, 401.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.34,
tr.122.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, H, 2009, t.2, tr.267-268.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10,
tr.8.
(6) Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992: Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2012, tr.383-390.
(7) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2014, tr.9.
(8) (9) Đảng Cộng sản
Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
H, 2011, tr.88, 88.