Chính phủ vừa
mới ban hành Nghị định số 52/2019/NĐ-CP ngày 14/6/2019 quy
định chi tiết một số điều của Luật Đặc xá.
Theo
đó, Nghị
định này quy định chi tiết Điều 11, Điều 19, khoản 1 Điều 21 của Luật Đặc xá về
thực hiện Quyết định về đặc xá, điều kiện, hồ sơ đề nghị đặc xá, thực hiện Quyết
định đặc xá đối với người nước ngoài, trình tự, thủ tục lập hồ sơ, danh sách
người đủ điều kiện được đề nghị đặc xá và thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá.
Nghị định số 52/2019/NĐ-CP
quy định các điều kiện của người được đề nghị đặc xá như sau:
1. Người bị kết
án phạt tù có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành
án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá là người đã chấp hành nghiêm Nội
quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, tích cực học tập, lao động, cải tạo
và các quý đã đủ thời gian xếp loại trong quá trình chấp hành án phạt tù được
xếp loại khá hoặc tốt.
2. Người bị kết
án phạt tù đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại,
nghĩa vụ dân sự khác quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá là người
thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Đã thi hành
xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác theo
bản án, quyết định của Tòa án;
b) Có quyết định
đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền;
c) Có Văn bản đề
nghị của người được thi hành án hoặc đại diện hợp pháp của người được thi hành
án về việc không phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại,
nghĩa vụ dân sự khác theo bản án, quyết định của Tòa án đối với tài sản không
thuộc sở hữu nhà nước.
3. Người bị kết
án phạt tù đã thi hành được một phần nghĩa vụ tài sản, bồi thường thiệt hại,
nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc
trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại là trường hợp người đó
và gia đình không còn tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài
sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy
định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án và không có thu
nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành
án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng.
4. Người bị kết
án phạt tù đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù quy định tại
điểm a khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là người thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Đã có hành
động giúp trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án Công an cấp huyện, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phát hiện, truy bắt, điều tra, xử
lý tội phạm;
b) Cứu được tính
mạng người khác hoặc tài sản lớn (có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên) của Nhà
nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn;
c) Có những phát
minh, sáng kiến có giá trị lớn hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc khác được trại
giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện xác nhận.
Người đã có
quyết định thi hành án phạt tù lập công lớn trong thời gian chờ đưa đến trại
giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án Công an cấp huyện để chấp hành án phạt
tù cũng được coi là lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù.
5. Người bị kết
án phạt tù đang mắc bệnh hiểm nghèo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 11 Luật
Đặc xá là người mắc một trong các bệnh: Ung thư giai đoạn cuối; liệt; lao nặng
kháng thuốc; xơ gan cổ chướng; suy tim độ III trở lên; suy thận độ IV trở lên;
bệnh HIV giai đoạn lâm sàng IV đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự
phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc bệnh khác
mà được Hội đồng giám định y khoa hoặc bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên
kết luận bằng văn bản là không tự phục vụ bản thân, nguy cơ tử vong cao.
6. Người bị kết
án phạt tù đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân quy định tại
điểm c khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là người đang phải nằm điều trị tại bệnh xá,
bệnh viện liên tục từ 03 tháng trở lên hoặc không liên tục nhưng phải nằm điều
trị tại bệnh viện từ ba lần trở lên, mỗi lần từ 01 tháng trở lên, không tự phục
vụ bản thân, có kết luận bằng văn bản của Hội đồng giám định y khoa hoặc bệnh
viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên.
7. Người bị kết
án phạt tù có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy
nhất trong gia đình quy định tại điểm e khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là trường
hợp gia đình của người bị kết án phạt tù đang lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc
biệt khó khăn do tại nạn, ốm đau, thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả
kháng khác dẫn đến không còn tài sản gì đáng kể, không có thu nhập hoặc thu
nhập dưới mức chuẩn hộ nghèo hoặc có bố đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con ốm nặng kéo
dài, không có người chăm sóc mà người đó là lao động duy nhất trong gia đình,
được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú xác nhận là đúng.
Nghị định số 52/2019/NĐ-CP có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2019./.
Đình Khôi