Luật trợ giúp pháp lý: Đảm bảo quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện mọi người bình đẳng trước pháp luật

Thành Nhân

Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) lần đầu tiên được Quốc hội ban hành vào năm 2006, qua 10 năm triển khai đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, đồng thời tăng cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, ngày 20/6/2017, Quốc hội đã thông qua Luật Trợ Giúp Pháp Lý năm 2017 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018.

Để hiểu rõ hơn những điểm mới của Luật TGPL 2017 cũng như hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Báo Lao động Đồng Nai đã có cuộc trao đổi với ông Viên Hồng Tiến – Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai.

18-4-2018 VHT TGPL.JPG


Câu hỏi 1: Luật TGPL có ý nghĩa như thế nào trong hệ thống luật pháp VN và trong đời sống xã hội? Trách nhiệm của Nhà nước được thể hiện trong Luật TGPL ra sao?

Trả lời:

Về ý nghĩa của Luật trợ giúp pháp lý trong hệ thống luật pháp VN và trong đời sống xã hội:

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một chính sách bảo đảm quyền con người, quyền công dân và là một bộ phận của tổng thể các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, chính sách dân tộc và ưu đãi xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ này được giao cho Ngành Tư pháp triển khai từ năm 1997 theo Quyết định số 734/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Luật Trợ giúp pháp lý lần đầu tiên được Quốc hội ban hành vào năm 2006 và qua 10 năm triển khai đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và nhiều đạo luật quan trọng mới được Quốc hội ban hành, tăng cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp đặt ra yêu cầu điều chỉnh thể chế để đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác trợ giúp pháp lý. Do đó, ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018. Sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế công tác trợ giúp pháp lý nói riêng và triển khai Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung. Qua đó tiếp tục khẳng định trợ giúp pháp lý là một yếu tố quan trọng trong hệ thống tư pháp, là trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho đối tượng được trợ giúp pháp lý.

Trách nhiệm của Nhà nước được thể hiện trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017:

 Luật có 01 điều quy định về vấn đề này với tiêu đề "Chính sách của Nhà nước về trợ giúp pháp lý" (Điều 4), thể hiện rõ hơn so với tên điều "Chính sách trợ giúp pháp lý" quy định tại Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006. Nội dung Điều 4 như sau:

1. Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước.

2. Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.

3. Nhà nước có chính sách nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý, thu hút các nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý.

4. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho hoạt động trợ giúp pháp lý.

Câu 2: So với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Luật năm 2017 có những điểm mới nào đáng chú ý?

Trả lời:  So với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có những điểm mới đáng chú ý như sau:

Thứ nhất, Luật đã khẳng định rõ nét hơn trách nhiệm của Nhà nước trong công tác TGPL và có sự phân biệt hoạt động này với dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội cụ thể, tại khoản 1, Điều 4 quy định: “Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước” và tại Điều 5 quy định Nhà nước bố trí kinh phí trong dự toán ngân sách hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

Thứ hai, mở rộng diện người được TGPL từ 7 đối tượng (theo Luật TGPL 2006) mở rộng lên 14 nhóm đối tượng theo các nguyên tắc, tiêu chí phù hợp với bản chất của TGPL và điều kiện đặc thù của đất nước, cụ thể là: Người có công với cách mạng;  Người thuộc hộ nghèo; Trẻ em; Người dân tộc thiểu số trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính như sau:

- Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ;

- Người nhiễm chất độc da cam;

- Người cao tuổi;

- Người khuyết tật;

- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự;

- Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình;

- Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người;

- Người nhiễm HIV.

Thứ ba, nâng cao chất lượng dịch vụ và chuyên nghiệp hóa hoạt động TGPL thông qua việc chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn tham gia thực hiện TGPL đối với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và quản lý chất lượng vụ việc TGPL. Để đạt được mục tiêu này Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã có các quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức tham gia TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL

Thứ tư, tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động TGPL, cụ thể:

- Đối với các cơ quan nhà nước có liên quan, Luật quy định trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình nếu phát hiện công dân thuộc diện được TGPL, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải thích quyền được TGPL và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL (Điều 42).

- Đối với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật sẽ phối hợp trong việc quản lý, giám sát việc thực hiện TGPL của luật sư, tư vấn viên pháp luật, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật (Điều 43 và Điều 44).

Thứ năm, sắp xếp, tinh gọn các Chi nhánh của Trung tâm TGPL của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, quy định chặt chẽ điều kiện thành lập Chi nhánh, chỉ được thành lập mới Chi nhánh Trợ giúp pháp lý tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước, nơi chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL.

18-4-2018 TGPL 1.JPG


Câu 3: Sở Tư pháp sẽ làm gì để nâng cao chất lượng dịch vụ và chuyên nghiệp hóa hoạt động trợ giúp pháp lý?

Trả lời: Để nâng cao chất lượng dịch vụ và chuyên nghiệp hóa hoạt động trợ giúp pháp lý, Sở Tư pháp đang thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ sau: 

1. Tổ chức quán triệt, truyền thông về nội dung của pháp luật nói chung cũng như về Luật TGPL và hoạt động TGPL

Đây là một trong những hoạt động quan trọng, cần tăng cường công tác truyền thông về quyền được TGPL và hoạt động TGPL để nâng cao nhận thức của những người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội về bản chất và vai trò của công tác TGPL, từ đó có sự quan tâm thỏa đáng đến công tác TGPL và việc sử dụng dịch vụ TGPL; tham mưu UBND tỉnh tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành liên quan đến hoạt động TGPL để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật Trợ giúp pháp lý.

2. Nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ người thực hiện TGPL, các Luật sư tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên trợ giúp pháp lý

Để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, cùng với các giải pháp về hoàn thiện thể chế, tăng cường nhận thức của các cơ quan, tổ chức cá nhân,… thì các biện pháp nâng cao năng lực cho những người trực tiếp cung cấp dịch vụ này có vai trò hết sức quan trọng thông qua các hoạt động như: tổ chức tập huấn chuyên sâu các nội dung của Luật Trợ giúp pháp lý cho đội ngũ người thực hiện TGPL, cán bộ, công chức thực hiện quản lý nhà nước về TGPL; thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng TGPL cho đội ngũ người thực hiện TGPL; rà soát đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý được bổ nhiệm để có kế hoạch đào tạo nghề luật sư phù hợp với điều kiện thực tế tại Trung tâm TGPL nhà nước.

3. Phối hợp tốt hơn với các cơ quan tiến hành tố tụng Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện cho người được trợ giúp pháp lý được hưởng quyền trợ giúp pháp lý, tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

4. Huy động các nguồn lực thực hiện TGPL, đảm bảo kinh phí từ ngân sách, đồng thời huy động, khai thác các nguồn lực, các điều kiện khác để thực hiện hiệu quả chính sách TGPL.

5. Cụ thể các nội dung, điều kiện với các tổ chức tham gia TGPL theo quy định của Luật, như các điều kiện để Sở Tư pháp ký kết hợp đồng với các tổ chức hành nghề luật sư, công khai, giới thiệu danh sách những người tham gia trợ giúp pháp lý.

14-8-2018 TGPL 2.jpg


Câu 4: Những tổ chức, cá nhân nào được tham gia TGPL?

Trả lời: Những tổ chức, cá nhân được tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật như sau:

1. Về tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý: Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý.

- Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập từ năm 1998, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng, địa chỉ tại số 224, đường 30/4, phường Thanh Bình, TP. Biên Hoà, Đồng Nai.

 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có thể có Chi nhánh. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước

 - Tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý: bao gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý.

- Tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký kết hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý

- Tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này.

2. Người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm:

- Trợ giúp viên pháp lý;

- Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý;

- Tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý;

- Cộng tác viên trợ giúp pháp lý./.

Liên kết website

Lượt truy cập

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ TƯ PHÁP TỈNH ĐỒNG NAI

Cơ quan chủ quản: ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI. Giấy phép số: 105/GP-BC ngày 28/07/2005.
Chịu trách nhiệm chính: bà Võ Thị Xuân Đào - Giám đốc Sở Tư Pháp tỉnh Đồng Nai 
Trụ sở: Số 2, Đường Nguyễn Văn Trị, phường Thanh Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Điện thoại: 02513.822528 - Fax: 02513.819833. Email: stp@dongnai.gov.vn
Bản quyền thuộc về Sở Tư Pháp tỉnh Đồng Nai 
® Ghi rõ nguồn "Sở Tư Pháp Đồng Nai" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này.​