Chính phủ vừa mới ban
hành Nghị định số 69/2019/NĐ-CP ngày 15/8/2019 quy định việc sử dụng tài sản
công để thanh toán cho Nhà đầu tư khi thực hiện Dự án đầu tư xây dựng công
trình theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (sau đây gọi là Dự án BT).
Theo Nghị định số 69/2019/NĐ-CP, tài sản công để thanh
toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT gồm:
- Quỹ đất.
- Đất, nhà và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây
gọi là trụ sở làm việc) của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật về
hội (sau đây gọi là cơ quan, tổ chức, đơn vị).
- Tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng (sau đây gọi là tài sản kết cấu hạ tầng).
- Các loại tài sản công khác theo quy định của Luật
quản lý, sử dụng tài sản công.
Trường hợp bán đấu giá tài sản công để lấy nguồn thanh
toán cho Hợp đồng BT thì việc sử dụng số tiền thu được từ bán đấu giá tài sản
công để thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT được thực hiện theo quy
định của Luật đầu tư công, Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn có
liên quan.
Cũng theo Nghị định số 69/2019/NĐ-CP, việc thanh toán
Dự án BT bằng tài sản công phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
1. Việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu
tư thực hiện Dự án BT phải đảm bảo:
a) Tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng
tài sản công, đất đai, ngân sách nhà nước, đầu tư, xây dựng.
b) Việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện Dự án BT theo
hình thức đấu thầu rộng rãi theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
c) Chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép theo quy định của pháp luật.
2. Việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu
tư thực hiện Dự án BT được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, giá trị Dự án
BT tương đương với giá trị tài sản công thanh toán; được xác định như sau:
a) Giá trị tài sản công được xác định theo giá thị
trường theo quy định của pháp luật tại thời điểm thanh toán quy định tại khoản
4 Điều này.
b) Giá trị Dự án BT được xác định theo kết quả đấu
thầu.
3. Việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu
tư thực hiện Dự án BT phải được tổng hợp, phản ánh vào ngân sách nhà nước theo
quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; cụ thể:
a) Đối với tài sản công thuộc trung ương quản lý được
tổng hợp, phản ánh vào ngân sách trung ương.
b) Đối với tài sản công thuộc địa phương quản lý được
tổng hợp, phản ánh vào ngân sách địa phương.
4. Thời điểm thanh toán Dự án BT đối với trường hợp
thanh toán bằng quỹ đất hoặc trụ sở làm việc là thời điểm Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ban
hành quyết định giao đất, cho thuê đất cho Nhà đầu tư. Thời điểm thanh toán Dự
án BT đối với trường hợp thanh toán bằng tài sản kết cấu hạ tầng và các loại
tài sản công khác là thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết
định giao tài sản cho Nhà đầu tư.
5. Khoản lãi vay trong phương án tài chính của Hợp
đồng BT đối với phần giá trị công trình Dự án BT hoàn thành theo tiến độ, chấm
dứt kể từ thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định giao
đất, cho thuê đất, giao tài sản cho Nhà đầu tư.
6. Việc giao tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư
thực hiện Dự án BT được thực hiện sau khi Dự án BT hoàn thành hoặc thực hiện
đồng thời tương ứng với khối lượng xây dựng công trình Dự án BT hoàn thành theo
tiến độ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định theo quy định của pháp
luật về đầu tư, xây dựng.
Nghị định số 69/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/10/2019 và bãi bỏ Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg ngày 26/6/2015
của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế Nhà nước thanh toán bằng quỹ đất cho
nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng theo hình thức Xây dựng - Chuyển
giao./.
Đình Khôi